Môi trường New_Zealand

Địa lý

Ảnh vệ tinh New Zealand.

New Zealand tọa lạc lân cận trung tâm của thủy bán cầu, gồm hai đảo chính và một số đảo nhỏ hơn. Hai đảo chính là đảo Bắcđảo Nam tách biệt nhau qua eo biển Cook rộng 22 km tại điểm hẹp nhất.[158] Trong số các đảo nhỏ, năm đảo lớn nhất có cư dân là đảo Stewart, Chatham, Great Barrier, d'Urville và Waiheke. Các đảo của New Zealand nằm giữa các vĩ độ 29° và 53°Nam, và các kinh độ 165° và 176°Đông.

New Zealand nằm dọc theo trục bắc-đông bắc dài trên 1600 km, với chiều rộng tối đa là 400 km,[159] với đường bờ biển dài khoảng 15.000 km (9.300 mi)[123] và tổng diện tích đất là 268.000 km²[160] Do có các đảo nằm ở khu vực xa xôi và đường bờ biển dài, New Zealand có tài nguyên hải dương phong phú. Vùng đặc quyền kinh tế của đảo quốc đứng hàng đầu thế giới về diện tích, gấp hơn 15 lần diện tích đất.[161]

Đảo Nam là đại lục lớn nhất của New Zealand và là đảo lớn thứ 12 trên thế giới. Dãy núi Nam Alps chạy dọc chiều dài của đảo.[162] Có 18 đỉnh cao trên 3.000 m, cao nhất trong số này là Aoraki / núi Cook với độ cao 3.754 m.[163] Các núi dốc và vịnh hẹp sâu tại Fiordland là dấu tích của thời kỳ bằng hà kéo dài tại góc tây nam của đảo.[164] Đảo Bắc có diện tích lớn thứ 14 thế giới và có ít núi hơn song có dấu ấn là hiện tượng núi lửa.[165] Vùng núi lửa Taupo hoạt động cao độ đã hình thành một cao nguyên núi lửa lớn, với dấu ấn là đỉnh cao nhất đảo Bắc mang tên núi Ruapehu (2.797 m). Cao nguyên cũng có hồ lớn nhất toàn quốc là hồ Taupo,[166] trên miệng núi lửa của một trong các siêu núi lửa hoạt động nhất trên thế giới.[167]

New Zealand có địa hình đa dạng, nằm trên ranh giới giữa mảng Thái Bình Dươngmảng Ấn-Úc.[168] New Zealand là một bộ phận của Zealandia, một vi lục địa có kích thướng gần bằng một nửa Úc, và dần bị chìm sau khi tách khỏi siêu lục địa Gondwana.[169] Khoảng 25 triệu năm trước, một sự trượt nghiêng của các chuyển động kiến tạo mảng bắt đầu vặn xoắn và bóp khu vực. Sự kiện này này hiện có bằng chứng rõ rệt nhất trên dãy Nam Alps, được hình thành từ ép nén vỏ trái đất bên cạnh đứt gãy Alpine. Ở nơi khác, ranh giới mảng liên quan đến hút chìm của một mảng dưới mảng khác, tạo ra rãnh Puysegur về phía nam, rãnh Hikurangi về phía đông của đảo Bắc, và các rãnh KermadecTonga[170] xe về phía bắc.[168]

New Zealand là bộ phận của Australasia, và cũng tạo thành cực tây nam của Polynesia.[171] Thuật ngữ châu Đại Dương thường được sử dụng để chỉ khu vực bao gồm lục địa Úc, New Zealand và các đảo trên Thái Bình Dương, song không nằm trong mô hình bảy lục địa.[172]

Khí hậu

New Zealand có khí hậu hải dương ôn hòa và ôn đới (Köppen: Cfb), với nhiệt độ trung bình năm dao động từ 10 °C ở phía nam đến 16 °C ở phía bắc.[173] Nhiệt độ cao nhất trong lịch sử là 42,4 °C tại Rangiora, Canterbury và thấp nhất trong lịch sử là -25,6 °C tại Ranfurly, Otago.[174] Điều kiện khác biệt rõ rệt, từ mưa rất nhiều tại West Coast của đảo Nam đến gần như bán khô hạn tại Trung Otago và bồn địa Mackenzie của nội lục Canterbury và bán nhiệt đới tại Northland.[175] Trong số bảy thành thị lớn nhất, Christchurch là nơi khô hạn nhất, trung bình chỉ nhận được 640 mm mưa mỗi năm, còn Auckland là nơi mưa nhiều nhất với lượng mưa gần gấp đôi.[176] Auckland, Wellington và Christchurch mỗi năm đều nhận được trung bình trên 2.000 giờ nắng. Các bộ phận miền nam và tây nam của đảo Nam có khí hậu mát hơn và nhiều mây hơn, với khoảng 1.400-1.600 giờ nắng; các bộ phận miền bắc và đông bắc của đảo Nam là khu vực có nắng nhiều nhất nước với 2.400-2.500 giờ.[177] Mùa tuyết rơi nhìn chung là từ đàu tháng 6 đến đầu tháng 10, song các đợt rét đột ngột có thể xuất hiện ngoài mùa này.[178] Tuyết rơi là điều phổ biến tại phần miền đông và miền nam của đảo Nam và trên các vùng núi khắp đất nước.[179]

Đa dạng sinh học

Sự biệt lập về địa lý của New Zealand trong 80 triệu năm[180] và yếu tố địa sinh học của đảo đã góp phần hình thành các loài động vật, thực vật và nấm đặc trưng của quốc gia này. Chúng hoặc là đã tiến hóa từ sự sống trong thời kỳ Gondwana hoặc một số ít sinh vật đã đến các bờ biển theo bằng cách bay đến, trôi dạt hoặc được mang đi qua biển.[181] Có khoảng 82% thực vật có mạch bản địa của New Zealand là loài đặc hữu, với khoảng 1.944 loài, thuộc 65 chi và bao gồm một họ đặc hữu.[182][183] Theo một ước tính có khoảng 2300 loài nấm gốc địa y ở New Zealand[182] và 40% trong số đó là loài đặc hữu.[184] Hai loại rừng chính gồm rừng chủ yếu là các cây lá rộng nổi bật bởi podocarp, hoặc rừng có đặc trưng là sồi miền nam thuộc khí hậu lạnh hơn.[185] Các loại thực phủ còn lại bao gồm đồng cỏ, phần lớn là bụi.[186]

Trước khi con người đến định cư, ước tính rừng che phủ 80% mặt đất, riêng chỉ có vùng núi cao, ẩm ướt, khu vực cằn cỗi và núi lửa là không có cây.[187] Chặt phá rừng diễn ra mạnh mẽ sau khi con người đến định cư, với khoảng phân nửa lớp phủ thực vật bị mất đi do bị đốt sau khi người Polynesia định cư.[188] Hầu hết rừng còn lại mất đi sau khi người châu Âu đến định cư, chúng bị chặt để làm nơi chăn nuôi gia súc, làm cho độ che phủ rừng chỉ còn 23%.[189]

Kiwi, loài chim không bay được đặc hữu và là biểu tượng của New Zealand.

Trong các khu rừng lúc đó chủ yếu là chim, và thiếu các loài thú săn mồi khiến cho một số loài như kiwi, kakapotakahē tiến hóa thành không thể bay được.[190] Khi con người đến, các thay đổi liên quan đến môi trường sống, và viẹc du nhập các loài chuột, chồn và các loài động vật có vú khác khiến cho nhiều loài chim bị tuyệt chủng, như moađại bàng Haast.[191][192]

Các loài động vật bản địa khác có mặt ở đây như bò sát (tuatara, thằn lằn bóng và tắc kè),[193] ếch, nhện (katipo), côn trùng (weta) và ốc sên.[194][195] Một số loài như wren và tuatara chỉ có mặt ở đây vì thế chúng được gọi là hóa thạch sống. Ba loài dơi (một đã tuyệt chủng) từng là dấu tích duy nhất về các loài thú trên cạn bản địa của New Zealand cho đến năm 2006 khi phát hiện bộ xương của một loài thú cạn độc nhất có kích thước như chuột với niên đại ít nhất 16 triệu năm.[196][197] Tuy vậy, các loài thú biển cũng khá phong phú, chiếm gần phân nủa các loài cá voi trên thế giới (cá voi, cá heo, và porpoise) và một lượng lớn các loài hải cẩu được ghi nhận trong các vùng biển của New Zealand.[198] Nhiều loài chim biển sinh sản ở New Zealand, 1/3 trong chúng là đặc trưng của quốc gia này.[199] Chim cánh cụt được tìm thấy ở New Zealand nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác.[200]

Kể từ khi con người đến định cư, gần phân nửa các loài động vật có xương sống đã tuyệt chủng, bao gồm ít nhất 51 loài chim, 3 loài ếch, 3 loài kỳ đà, 1 loài cá nước ngọt, và một loài dơi. Các loài khác đang bị đe dọa tuyệt chủng hoặc diện tích phân bố giảm mạnh.[191] Tuy nhiên, các nhà bảo tồn New Zealand đã đi tiên phong khi áp dụng nhiều biện pháp để giúp các loài bị đe dọa tuyệt chủng này hồi phục, bao gồm các khu bảo tồn trên đảo, khống chế loài gây hại, chuyển khu vực sinh sống hoang dã, nuôi dưỡng, và phục hồi hệ sinh thái trên đảo và các khu vực được chọn bảo tồn khác.[201][202][203][204] Theo chỉ số hoạt động môi trường năm 2012, New Zealand được xem là có những động thái mạnh mẽ trong việc bảo vệ môi trường, xếp hạng thứ 14 trên tổng số 132 quốc gia được đánh giá.[205]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: New_Zealand http://www.budde.com.au/Research/New-Zealand-Telec... http://www.smh.com.au/money/super-and-funds/kiwis-... http://news.theage.com.au/national/world-mourns-si... http://www.science.unsw.edu.au/news/2006/nzmammal.... http://www.library.uq.edu.au/ojs/index.php/fab/art... http://www.abs.gov.au/Ausstats/abs@.nsf/57a31759b5... http://www.dfat.gov.au/aib/history.html http://www.dfat.gov.au/geo/new_zealand/nz_country_... http://www.anzacday.org.au/spirit/spirit2.html http://www.ck/govt.htm#con